Hóa đơn hộ kinh doanh cá thể thực hiện như thế nào?
Mục lục
Một trong các vấn đề mà hộ kinh doanh cần quan tâm đó là hóa đơn hộ kinh doanh cá thể. Theo quy định hiện hành, hộ kinh doanh không có quyền xuất hóa đơn giá trị gia tăng (hóa đơn đỏ). Thay vào đó, hộ kinh doanh sẽ mua hóa đơn từ cơ quan thuế để sử dụng trong quá trình hoạt động.
Hộ kinh doanh cá thể có được xuất hóa đơn đỏ hay không?
Căn cứ vào Điều 5 của Thông tư số 119/2014/TT-BTC, ban hành ngày 25/8/2014, Bộ Tài chính đã định nghĩa hóa đơn Giá trị gia tăng tức hóa đơn đỏ, là loại hóa đơn được dùng cho các tổ chức khai và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Cụ thể, hóa đơn đỏ sẽ được áp dụng cho các hoạt động sau:
– Bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ nội địa;
– Hoạt động vận tải quốc tế;
– Hoạt động xuất vào khu phi thuế quan và những trường hợp được coi như xuất khẩu.

Tại Luật thuế giá trị gia tăng sửa đổi năm 2013 số 31/2013/QH13, ban hành ngày 19/6/2013, Quốc hội đã quy định phương pháp khấu trừ sẽ chỉ áp dụng với các đối tượng là các cơ sở kinh doanh có thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo đúng quy định pháp luật về kế toán, hóa đơn, chứng từ. Cụ thể bao gồm:
– Các cơ sở kinh doanh có doanh thu mỗi năm từ hoạt động bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đạt khoảng 1 tỷ đồng trở lên, ngoại trừ các hộ và cá nhân kinh doanh.
– Các cơ sở kinh doanh đăng ký tự nguyện sẽ áp dụng theo phương pháp khấu trừ thuế, ngoại trừ các hộ và cá nhân kinh doanh.
Như vậy, căn cứ các quy định pháp luật liên quan tới hóa đơn đỏ bên trên thì các hộ kinh doanh cá thể không phải là đối tượng được khai và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Điều này đồng nghĩa rằng: các hộ kinh doanh cá thể sẽ không được xuất hóa đơn đỏ.
Trường hợp các hộ kinh doanh muốn được xuất hóa đơn đỏ thì bắt buộc phải tiến hành chuyển đổi mô hình doanh nghiệp, tuân thủ theo đúng các quy định pháp luật về hóa đơn đỏ hiện hành.
Hóa đơn hộ kinh doanh cá thể thực hiện như thế nào?
Do không được xuất hóa đơn đỏ nên hộ kinh doanh nếu muốn hóa đơn hộ kinh doanh cá thể thực hiện như sau:
Theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 11, Thông tư 39/2014/TT-BTC, hộ kinh doanh sẽ nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, tỷ lệ phần trăm nhân doanh thu thuộc đối tượng được mua hóa đơn của Cơ quan thuế.

Nội dung việc mua bán hóa đơn của Cơ quan thuế được quy định rõ ràng tại Điểm b, Khoản 2, Điều 12, Thông tư trên như sau:
– Cơ quan thuế bán tối đa 1 quyển 50 số mỗi loại hóa đơn cho hộ kinh doanh lần đầu.
– Với các lần sau, tùy thuộc vào tình hình kê khai nộp thuế và đề nghị mua hóa đơn, Cơ quan thuế sẽ giải quyết bán hóa đơn trong ngày với số lượng không quá số lượng hóa đơn đã sử dụng của tháng trước đó.
– Nếu không có nhu cầu sử dụng hóa đơn quyển và muốn thay đổi sang hóa đơn lẻ, thì được mua hóa đơn lẻ (1 số) theo từng lần phát sinh, không cần nộp tiền.
Tóm lại, hộ kinh doanh không thể xuất hóa đơn VAT như doanh nghiệp, hóa đơn hộ kinh doanh cá thể được mua theo tháng từ Cơ quan thuế.
Phân biệt hóa đơn đỏ và hóa đơn bán hàng
Căn cứ khoản 1 điều 5 Thông tư 119/2014/TT-BTC sửa đổi bổ sung thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn thi hành nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014 của Chính phủ quy định về vấn đề hóa đơn bán hàng cung ứng dịch vụ , có hai loại hóa đơn bao gồm:
- Hóa đơn giá trị gia tăng là một loại hóa đơn dùng cho các tổ chức khai thuế và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ trong các hoạt động như: bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ trong khu vực nội địa; hoạt động vận tải quốc tế; xuất vào khu phi thuế quan và các trường hợp được xem như xuất khẩu. Trên hóa đơn đỏ sẽ ghi các thông tin như tên, địa chỉ hay mã số thuế của hai bên bán và mua, liệt kê danh mục hàng hóa, ngày thực hiện giao dịch , tổng giá trị hàng hóa dịch vụ, giá trị tính thuế, thuế suất và số tiền thuế phải trả.
- Hóa đơn bán hàng được sử dụng cho tổ chức, cá nhân khai, tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp trong các hoạt động như: Bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trong nội địa, xuất hàng hóa vào khu phi thuế quan và các trường hợp khác được xem như xuất khẩu; tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ vào nội địa và khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan với nhau.